Intro:
Hello Everyone! Mình là Thư, host của các bạn, là cử nhân chuyên ngành tâm lý tốt nghiệp tại Anh và tác giả sách của Hành tinh của một kẻ nghĩ nhiều. Chào mừng các bạn đến với Amateur Psychology – Tay mơ học đời bằng tâm lý học. Đây là một series podcast với tiêu chuẩn ngắn gọn, dễ hiểu sử dụng thông tin trích dẫn từ các nghiên cứu tâm lý học uy tín, học thuật và có căn cứ, thích hợp cho người muốn đọc vị thế giới và bản thân bằng khoa học.
Mùa hè vừa rồi mình có đọc một bài viết trên Substack của tác giả Rayne Fisher-Quann có tên no good alone, bàn về việc chúng ta có đang quá độ trong việc cổ xuý câu chuyện ở một mình. Trong bài viết này tác giả có đề cập đến văn hoá huy hoàng hoá việc dành thời gian một mình, ưu tiên nhu cầu của bản thân, bảo vệ sự bình yên trong tâm của bạn đang ngày càng trở thành những trào lưu được ủng hộ nhiệt liệt qua các bài viết về sự cô độc, các clip youtube một ngày hẹn hò với chính mình hay những short instagram và clip tiktok kể về một ngày dành thời gian một mình của các bạn trẻ trên mạng. Bài viết mình đã đọc từ tận tháng 8 mà đến bây giờ mình vẫn cứ suy nghĩ mãi về câu hỏi này, đặc biệt là sau khi đọc bài viết trên báo Atlantic của Kaitlyn Tiffany về việc liệu chúng ta có nên cắt đứt tất cả những mối quan hệ độc hại khỏi cuộc sống của mình. Các bạn đừng lo sẽ bỏ lỡ những bài báo này, mình sẽ để link ở phần mô tả của podcast này ở website của Amateur Psychology để các bạn tìm đọc nha.
Quay lại với câu hỏi về việc lãng mạn hoá sự cô độc, là một du học sinh genZ và một người đã viết quá nhiều về sự cô độc, trong sách Hành tinh của một kẻ nghĩ nhiều và Chúng ta ai cũng cần những dịu dàng, trong episode 11 – Thời đại của cô đơn, episode 27 – Thoải mái với cô độc và cảm giác không thuộc về và trong rất nhiều trang nhật ký, mình tự thấy bản thân cần tham gia vào cuộc thảo luận về sự lành mạnh của cô độc, dừng lại ở đâu sẽ chuyển thành thuốc độc mà ta tự uống một mình. Xa nhà từ năm 17 tuổi đến nay đã sang 23, mình dành rất nhiều thời gian một mình. Mà mình cho rằng, rất nhiều các bạn thanh thiếu niên cùng lứa với mình hay các anh chị đã đi qua một thời thanh xuân, đều từng trải qua cảm giác như thể mình là người duy nhất hiểu chính mình và ngay cả những người thân thiết nhất cũng không cùng tồn tại trong thế giới nhỏ bé kinh khủng của mình. Chúng ta có vẻ như đều là những kẻ lãng mạn và cực kì bi tráng, không một cảm xúc nào chúng ta cảm nhận là nhỏ bé, tất cả đều phải được phóng đại lên như thể đó là điều quan trọng nhất trong thế giới của chúng ta. Nhưng chúc mừng cả bạn và mình, bởi đến cả Taylor Swift còn hát trong bài hát 22 rằng we’re happy, free, confused and lonely at the same time, chúng ta vui vẻ, tự do, lạc lối và cô đơn trong cùng một lúc. Đó là cảm giác đặc thù của tuổi trẻ.
Vậy sau khi đã xác nhận chuyện cảm thấy cô đơn là một điều thuộc thuyết vạn vật, câu hỏi mình đặt ra cho episode 77 là, bao giờ sự thoải mái với cô độc có thể gây hại cho sức khoẻ tâm lý và sức khoẻ của những mối quan hệ cá nhân của chúng ta? Và đối lập với sự cô độc, vì sao những mối quan hệ lành mạnh lại quan trọng đến như vậy? Cuối cùng, sau rất nhiều ba phải giữa việc ca ngợi sự cô độc và khuyến khích xây dựng những mối quan hệ lành mạnh, rốt cuộc mình đứng ở đâu trong cuộc đối thoại này?
Nếu các bạn cũng sinh ra trong một hoàn cảnh xã hội cơ bản như mình, lớn lên trong gia đình, đi học, đi làm cùng với những động vật xã hội khác là cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, chúng ta đều đã xem việc giao tiếp giữa người với người là một điều đương nhiên và phải xảy ra cho sự mạch lạc trong tương tác hằng ngày. Vậy nhưng có lẽ không ai dừng lại và phân tích sự phức tạp cho việc duy trì và nuôi nấng những mối quan hệ xã hội này. Dunbar (2003), Dunbar & Shultz (2007) và Cacioppo & Cacioppo (2014) chỉ ra vô vàng những yếu tố đòi hỏi ở mỗi cá nhân trong quan hệ giữa người với người. Thứ nhất, chúng ta phải học hỏi qua việc quan sát những tương tác xã hội. Thứ hai, chúng ta phải nhận thức được sự thay đổi trong mối quan hệ qua thời gian và xác định ai là thù, ai là bạn. Thứ ba, chúng ta phải lên kế hoạch và điều phối tương tác một cách mượt mà giữa hai cá nhân. Thứ tư, chúng ta phải dùng ngôn ngữ để giao tiếp, giải thích, dạy dỗ hay kể cả lừa gạt người đối diện. Thứ năm, chúng ta phải điều hoà các mối quan hệ và lựa chọn ưu tiên trong chuyện tình cảm, gia đình, bạn bè, hội nhóm… Thứ sáu, chúng ta phải hiểu và biết cách khéo léo trong phân tầng của xã hội trong giao tiếp với người khác, hiểu về vai vế, nền văn hoá và phép tắc xã hội. Thứ bảy, chúng ta đôi khi phải hi sinh mong ước của bản thân và nhường nhịn người khác để duy trì lợi ích lâu dài. Thứ tám, chúng ta phải loại bỏ, chỉ trích hay né tránh những người được cho là xấu trong xã hội. Và cuối cùng, chúng ta phải làm tất cả những điều trên khi phải cân nhắc về cả quá khứ và tương lai của những mối quan hệ này. Chỉ cần nghe qua một danh sách này thôi, mình cũng đã đau đầu nhận ra, đôi khi chúng ta quá xem nhẹ những công sức bỏ ra cho những tương tác xã hội. Có lẽ chính vì chúng ta coi những nỗ lực này là đương nhiên, xã hội cũng đòi hỏi chúng ta phải giỏi, phải khéo trong chuyện này để được tôn trọng, yêu quý hay nổi tiếng. Minh chứng cho điều này là việc người hướng ngoại thường được ưu ái trong tập thể hơn những người hướng nội, mình đã giải thích nhận định này ở episode 6, mọi người có thể tìm nghe lại vì sao nha. Từ đó, trước áp lực này, có lẽ không có gì khó hiểu khi rất nhiều người trong chúng ta, với sự hỗ trợ của công nghệ và mạng xã hội, lựa chọn lui mình vào trong chiếc kén của bản thân và dành thời gian một mình nhiều hơn.
Việc dành thời gian một mình được tìm thấy là vô cùng cần thiết và quan trọng. Nghiên cứu tìm thấy trạng thái cô độc (solitude) thường được dùng để tìm kiếm và khám phá bản thân, tăng sức sáng tạo và lột xác khỏi bản ngã cũ của chính mình (Coplan et al., 2019). Nghiên cứu của Coplan et al. (2019) đi sâu vào khái niệm yêu thích việc ở một mình tìm thấy đối với những người thích dành thời gian một mình, việc dành thời gian một mình không tỉ lệ thuận với cảm giác cô đơn hay các triệu chứng trầm cảm. Tức việc ở một mình đối với họ không phải là một trạng thái tiêu cực. Đối với những người thích ở một mình, việc không có đủ thời gian cho bản thân thậm chí có thể ảnh hưởng không tích cực đến sức khoẻ tâm lý của họ. Tất nhiên những nhà nghiên cứu này cũng nhấn mạnh rằng việc yêu thích cảm giác một mình không hoàn toàn giống nhau ở tất cả những người yêu thích cô độc. Tất cả chúng ta đều có những cán cân khác nhau về thời lượng tối ưu khi ở một mình và khi dành thời gian với người khác.
Vậy nếu như tôi thích ở một mình, liệu có thể nào cắt bỏ thế giới ra khỏi thế giới của riêng tôi được hay không? Câu hỏi này có thể được trả lời qua nhiều nghiên cứu về muôn loài chứ không chỉ loài người chúng ta. Nghiên cứu của Nonogaki, Nozue & Oka (2007) tìm thấy việc cách ly xã hội có thể tăng khả năng béo phì và nguy cơ tiểu đường ở chuột. Nghiên cứu của Dronjak et al. (2004) lại tìm thấy việc cách lý có thể dẫn đến việc nhạy cảm thái quá trong phản ứng với những tác nhân nguy hại ở chuột. Nghiên cứu của Poletto et al. (2006) tìm thấy sự suy giảm trong điều phối glucocorticoid ở thuỳ trán của lợn là một loại hooc môn hỗ trợ trao đổi chất và ảnh hưởng đến tâm trạng, hành vi và giấc ngủ khi bị cách ly. Nghiên cứu của Lyons et al. (1995) lên cách ly ở khỉ thì tìm thấy hooc môn stress cortisol sẽ gia tăng vào buổi sáng. Ngay cả trong thế giới động vật, việc bị cách ly và ở một mình cũng ảnh hưởng sâu sắc đến sức khoẻ thể chất. Vậy đối với con người thì sao?
Nghiên cứu của Cacioppo & Cacioppo (2014) đề cập đến những tác hại của sự cô đơn có thể được tìm thấy như các triệu chứng trầm cảm, tự nhận thức sức khoẻ kém, hạn chế trong nhiều hoạt động hằng ngày. Cảm giác cô đơn cũng được tìm thấy là có khả năng gia tăng bệnh tim mạch và huyết áp, ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất và giấc ngủ cũng như suy giảm hệ miễn dịch. Nghiên cứu của Cacioppo et al. (2002) lên các sinh viên đại học tìm thấy những sinh viên báo cáo cô đơn cũng trải nghiệm việc thức giấc thường xuyên và có những giấc ngủ không thư giãn. Các nhà nghiên cứu này cho rằng đó là bởi bộ não cô đơn thường nhạy cảm và có độ đề phòng cao hơn khi ngủ.
Cacioppo & Cacioppo cho rằng, xuyên suốt quá trình lịch sử, chúng ta đã tồn tại trong mô hình bộ lạc, gia tộc và cặp đôi cho sự an toàn, được bảo vệ và tương trợ. Cảm giác khó chịu của cô đơn chính là dấu hiệu cơ thể thúc đẩy chúng ta phải cải tạo những mối quan hệ, xây dựng niềm tin và sự hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng. Sự cô đơn, cũng như đói, khát và cơn đau thể xác, có thể mang lại ảnh hưởng nguy hại nếu chúng ta phớt lờ nó.
Vậy nếu như tôi thích ở một mình nhưng không muốn phải chịu những tác hại của việc thiếu tương tác và cách ly khỏi xã hội thì sao? Có lẽ câu hỏi cốt lõi nhất bất kì những ai đang tìm thấy mình dành thời gian một mình quá độ đó là, mình có đang hạnh phúc hay không? Và tất nhiên, bạn phải có đủ dũng cảm và sự thật thà để đưa ra câu trả lời chân thực nhất cho chính mình, bất kể câu trả lời đó có lẽ sẽ bao gồm việc thừa nhận những cảm xúc không có gì tích cực và những phút yếu lòng của chính mình. Tiếp theo bạn có thể hỏi chính mình, mình có đang cảm thấy an toàn hay không? Cacioppo & Patrick (2008) tìm thấy, khi cô đơn, chúng ta không chỉ buồn mà còn cảm thấy không an toàn bởi sự nhạy cảm thái quá với mọi mối nguy tiềm tàng. Bạn có cảm thấy mình có đủ sự ủng hộ và một nơi để tìm về khi bạn không cảm thấy an toàn? Và cuối cùng, bạn có đang lãng quên những mối quan hệ lành mạnh và đẹp đẽ với những người quan trọng trong cuộc sống của mình không? với sự nhấn mạnh hai chữ lành mạnh. Nghiên cứu của Hawkley (2007) tìm thấy, những tương tác tiêu cực ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm lý của chúng ta sâu sắc hơn những tương tác tích cực. Vậy nên đối với những mối quan hệ cá nhân không lành mạnh, đôi khi việc bỏ bớt những tương tác này và ở một mình còn có ích hơn việc cố lấp thời gian với những năng lượng nhấn chìm bạn.
Nếu sau tất cả những câu hỏi trên và bạn nhận ra có thể mình đang yêu thích cô độc một cách quá độ, bạn không phải là cá nhân duy nhất đâu, đừng lo. Tháng 7 vừa rồi, mình về nhà một kì nghỉ dài lần đầu tiên sau dịch COVID, sau đó mình quay lại Anh và ở cùng nhà với hai người bạn cùng nhà mới, đó là khi mình nhận ra mình đã cô độc đến nhường nào, đã để bản thân lãng mạn hoá sự cô độc lâu đến nhường nào. Suốt nhiều năm ở Anh, mình đi làm vào kì nghỉ, đi học, làm podcast, viết các dự án cá nhân khi không đi làm, cắm đầu đuổi theo những giấc mơ, rất nhiều tình bạn đã lọt qua kẽ tay của mình sau khi tốt nghiệp đại học. Đi làm ở bệnh việc với các cô chú lớn tuổi, đi làm tư vấn tâm lý từ xa tại nhà, mình quên mất cảm giác cười to trên đường, trong bếp, giữa một bữa tiệc, hay trong quán ăn cùng bạn bè và gia đình. 23 tuổi, ngồi trong căn phòng hai cửa sổ lớn nhìn ra phía xa xa những ngọn đồi và những căn nhà sau sương mù Sheffield, mình suýt bật khóc nhận ra, lần đầu tiên sau một thời gian dài rất dài, mình không còn cảm thấy cô độc nữa. Sinh nhật, giáng sinh, những ngày cuối tuần xem phim và ăn tối không một mình, hành tinh của một kẻ nghĩ nhiều không còn vắng khách nữa, mình không còn một mình nữa.
Có khi cảm giác hạnh phúc, tự do, lạc lối và cô đơn, chỉ là một phần của tuổi 22 như Taylor Swift đã hát, có khi nó lại là cảm giác không thể chạy trốn đi đâu được bởi bất cứ ai trong tuổi trẻ. Chúng ta tìm thấy mình trên một chặng đường đuổi theo những lý tưởng, trên chặng đường đó, rất nhiều đoạn đường chúng ta phải đi một mình, lại có những đoạn đường chúng ta không còn một mình nữa, vậy nhưng chúng ta vẫn cứ phải đi tiếp về phía trước, tin rằng những lữ khách định mệnh đi cùng chúng ta đang chờ ta ở tương lai, hay cũng đang đi một mình trên chặng đường của họ. Mình muốn đọc lại một đoạn trích mình viết trong bài đăng của substack Thư Hỏi Thử của mình gần đây trong câu hỏi thứ bảy: chúng ta có phải là những sinh vật cô đơn?
Audrey Hepburn nói về bí kíp đạt được nhan sắc của mình rằng: Để có được đôi mắt đẹp, hãy tìm kiếm lòng tốt trong người khác. Để có được bờ môi đẹp, hãy chỉ nói những lời tử tế và cho một phong thái đĩnh đạc, hãy bước đi với sự hiểu biết rằng bạn không bao giờ một mình.
Mình đã suy nghĩ rất nhiều về việc bước đi biết rằng bạn không bao giờ một mình, có phải Audrey ám chỉ việc chúng ta phải luôn có ai đó đi cùng mình trên mọi nẻo đường, nếu không chúng ta sẽ không bao giờ đạt được bí kíp này. Mình nghĩ và nghĩ rất nhiều, rồi tự thất xấu hổ cho thói quen dành thời gian một mình quá độ của bản thân. Một ngày nắng ở Sheffield, khi đang sải bước một mình trên phố, ông cụ dắt chú chó beetle nhỏ mỉm cười với mình và mình mỉm cười lại và mình nhận ra, mình chưa bao giờ một mình, ngay cả khi mình một mình.
Sự tử tế của mình lớn lên từ tình yêu và sự dạy dỗ của bố mẹ, việc quan tâm và luôn mong muốn là sự dịu dàng khi hiện diện trong không gian cùng người khác được học hỏi từ những người bạn chân thành, sự tôn trọng bản thân được rèn luyện bởi những người yêu cũ, lòng tự hào được truyền cảm hứng bởi các bạn ủng hộ mình. Trên cả những điều nội tại bên trong, mình tin rằng chúng ta luôn bước đi dưới sự bảo vệ của một ai đó, một số trong chúng ta tin rằng đó là Chúa, là Phật, số còn lại tin rằng đó là ông bà tổ tiên của mình, chúng ta có lẽ có thể gọi chung đó là thế lực của vũ trụ. Chúng ta không bao giờ bước đi một mình. Và với sự hiểu biết đó, mình đoán rằng mình đã gần nhất với cảm xúc hạnh phúc từ trước đến giờ.
Và nếu bạn thấy tiêu đề của tập ngày hôm nay có dòng chữ cùng Chúng ta ai cũng cần những dịu dàng thì đó là bởi vì mình đã có luận về vấn đề này trong quyển sách thứ hai của mình trong chương Biện minh của cô đơn, bạn có thể tìm đọc nếu thích. Mình mong rằng các bạn thính giả đang ở những hành tinh khác đã thích episode ngày hôm nay, và với sự hiểu biết này, sẽ không còn cảm thấy một mình nữa. Còn bây giờ thì mình sẽ hẹn gặp lại mọi người ở tập tiếp theo nha. Bái bai.
Outtro:
Cảm ơn các bạn đã dành thời gian lắng nghe Amateur Psychology. Nếu các bạn yêu thích podcast ngày hôm nay thì hãy follow mình trên ứng dụng bạn đang sử dụng và giới thiệu cho cả bạn bè và người thân cùng lắng nghe nhé. Các bạn cũng có thể để lại đánh giá cho mình qua cả Apple Podcast và Spotify, là một cách ủng hộ mình hoàn toàn miễn phí và có thể đưa Amateur Psychology đến nhiều người nghe hơn. Mọi người cũng có thể theo dõi Amateur Psychology qua Facebook, Instagram, Youtube và đọc tài liệu được nhắc đến ở mỗi tập qua blog của Amateur Psychology. Mọi đường link sẽ được tìm thấy qua website ở phần mô tả. Một lần nữa, mình là Thư, host của các bạn. Chào tạm biệt và chúc các bạn luôn tự bổ sung kiến thức cho bản thân. Goodbye and stay woke guys!
Reference:
no good alone by RAYNE FISHER-QUANN substack https://internetprincess.substack.com/p/no-good-alone
That’s It. You’re Dead to Me. by Kaitlyn Tiffany The Atlantics https://www.theatlantic.com/magazine/archive/2022/09/toxic-person-tiktok-internet-slang-meaning/670599/
Cacioppo, J. T., & Cacioppo, S. (2014). Social relationships and health: The toxic effects of perceived social isolation. Social and personality psychology compass, 8(2), 58-72.
Dunbar, R. I., & Shultz, S. (2007). Evolution in the social brain. science, 317(5843), 1344-1347.
Dunbar, R. I. (2003). The social brain: mind, language, and society in evolutionary perspective. Annual review of Anthropology, 32(1), 163-181.
Coplan, R. J., Hipson, W. E., Archbell, K. A., Ooi, L. L., Baldwin, D., & Bowker, J. C. (2019). Seeking more solitude: Conceptualization, assessment, and implications of aloneliness. Personality and Individual Differences, 148, 17-26.
Cacioppo, J. T., & Patrick, W. (2008). Loneliness: Human nature and the need for social connection. WW Norton & Company.
Hawkley, L. C., & Cacioppo, J. T. (2010). Loneliness matters: A theoretical and empirical review of consequences and mechanisms. Annals of behavioral medicine, 40(2), 218-227.
Nonogaki, K., Nozue, K., & Oka, Y. (2007). Social isolation affects the development of obesity and type 2 diabetes in mice. Endocrinology, 148(10), 4658-4666.
Dronjak, S., Gavrilović, L., Filipović, D., & Radojčić, M. B. (2004). Immobilization and cold stress affect sympatho–adrenomedullary system and pituitary–adrenocortical axis of rats exposed to long-term isolation and crowding. Physiology & behavior, 81(3), 409-415.
Poletto, R., Steibel, J. P., Siegford, J. M., & Zanella, A. J. (2006). Effects of early weaning and social isolation on the expression of glucocorticoid and mineralocorticoid receptor and 11β-hydroxysteroid dehydrogenase 1 and 2 mRNAs in the frontal cortex and hippocampus of piglets. Brain research, 1067(1), 36-42.
Lyons, D. M., Ha, C. M., & Levine, S. (1995). Social Effects and Circadian Rhythms in Squirrel Monkey Pituitary–Adrenal Activity. Hormones and Behavior, 29(2), 177-190.
Cacioppo, J. T., Hawkley, L. C., Crawford, L. E., Ernst, J. M., Burleson, M. H., Kowalewski, R. B., … & Berntson, G. G. (2002). Loneliness and health: Potential mechanisms. Psychosomatic medicine, 64(3), 407-417.