Intro:
Hello Everyone! Mình là Thư, host của các bạn, là cử nhân chuyên ngành tâm lý tốt nghiệp tại Anh và tác giả sách của Hành tinh của một kẻ nghĩ nhiều. Chào mừng các bạn đến với Amateur Psychology – Tay mơ học đời bằng tâm lý học. Đây là một series podcast với tiêu chuẩn ngắn gọn, dễ hiểu sử dụng thông tin trích dẫn từ các nghiên cứu tâm lý học uy tín, học thuật và có căn cứ, thích hợp cho người muốn đọc vị thế giới và bản thân bằng khoa học.
Chào mọi người, mọi người dạo này sao rồi? Nếu mọi người có cảm thấy rằng chất lượng âm thanh hôm nay khác với hai tập podcast gần đây nhất thì đó chính là bởi vì Thư đã quay lại Anh rồi mọi người ơi, bởi vậy mà cũng có mic để mà ghi âm. Thư muốn cập nhật với mọi người một chút về con đường của Thư hiện tại. Nếu các bạn có theo dõi substack Thư Hỏi Thử (nếu bạn vẫn chưa thì Thư sẽ để link ở phần mô tả nha), thì sau hai năm lăn lộn đi làm, Thư đã đưa ra quyết định quay lại làm học sinh và tiếp tục sự học của mình với việc đi học thạc sĩ. Thư hiện đang theo học Thạc sĩ ngành Thần kinh lâm sàng (Clinical Neurology) tại đại học Sheffield ở Anh. Thư cũng mong rằng việc học sẽ không chỉ giúp Thư phát triển sự nghiệp và nhân dạng bản thân mà còn có thể chia sẻ những kiến thức Thư học được đến các bạn theo dõi Amateur Psychology và các bạn đọc của mình. Đó, chỉ là như vậy thôi, Thư muốn có thể chia sẻ để mọi người biết được thời gian vừa qua không làm podcast thì Thư làm gì và sắp tới Thư sẽ làm gì. Còn bây giờ thì mình bắt đầu tập podcast ngày hôm nay thôi ha.
Trong suốt quá trình lớn lên, mình đã được nghe ba mẹ kể rất nhiều về những mối quan hệ độc hại và bạo lực mà trong đó một người luôn là kẻ bạo hành và người còn lại luôn là nạn nhân của bạo hành – việc bạo hành này có thể bao hàm từ việc lăng mạ, quấy rối cho đến sử dụng vũ lực. Mình đã luôn đau đáu trong lòng, vì sao họ không rời đi, vì sao họ phải chịu đựng và ở lại những tình huống khổ đau như vậy? Gần đây mình coi phim Mask Girl nhìn thấy nhân vật Kim Chun-ae bị mắc kẹt trong một mối quan hệ với một người đàn ông mà Netflix tiếng anh dịch là ‘parasitic’ hay tiếng việt nôm na là ăn bám, còn bạo lực với cô gái này, xem phim đến tập 4 mình khóc nức nở lên xuống vì cảm động. Trong thực tế, những người mình biết ngoài đời đã mắc kẹt vào những mối quan hệ bạo lực thường duy trì mối quan hệ này từ vài năm cho đến rất nhiều năm, chứ không phải chỉ vài ngày hay vài tuần. Bên cạnh vấn đề về pháp lý, phân chia tài sản, vướng bận về con cái, khó khăn tài chính và rất nhiều những yếu tố ngoại cảnh khác, vì sao những nạn nhân trong một mối quan hệ bạo lực cảm thấy khó khăn trong việc rời khỏi mối quan hệ này? Đây là câu hỏi mà episode 74 Amateur Psychology sẽ cùng mọi người giải mã.
Bài báo của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đăng ngày 11 tháng 6 năm 2022 đề cập đến nghiên cứu của WHO (Tổ chức y tế thế giới) tìm thấy một trong ba phụ nữ trên thế giới đã từng trải qua bạo lực. Hầu hết những bạo lực lên phụ nữ thường do chồng hoặc bạn trai gây ra. Trên khắp thế giới, hơn 640 triệu phụ nữ trên 15 tuổi đã trải nghiệm bạo hành từ đối tác của mình. Năm 2020, báo cáo của Văn phòng Liên hợp quốc về phòng chống ma tuý và tội phạm tìm thấy trong 81.000 phụ nữ và trẻ em gái bị giết, 47.000 người bị giết bởi bạn đời hoặc thành viên trong gia đình của họ.
Nghiên cứu của Devries et al. (2013) đề cập về việc IPV (intimate partner violence) tức bị bạo hành bởi đối tác là dạng thức bạo hành phổ biến nhất mà phụ nữ là nạn nhân trong đó. IPV có thể bao gồm việc bạo hành thể xác, tình dục và cảm xúc. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã đào sâu vào hiện trạng bị bạo hành của phụ nữ, nghiên cứu của Houry et al. (2008) tìm thấy chỉ số nam và nữ báo cáo trải nghiệm là nạn nhân của bạo hành là tương đương nhau, tuy nhiên, số lượng nghiên cứu hiện tại vẫn tập trung nhiều hơn về các nạn nhân là nữ giới. Bên cạnh là một vấn đề giới, bạo hành gia đình là một vấn đề xã hội nghiêm trọng mà mình nghĩ rằng ai trong chúng ta cũng nên có kiến thức để có thể tìm cách hỗ trợ chính mình hoặc người khác khi chúng ta bất kể là trực tiếp hay gián tiếp bị ảnh hưởng bởi bạo lực gia đình.
Vậy câu hỏi chúng ta đã đặt ra ngay từ đầu của episode đó là, vì sao việc rời khỏi một mối quan hệ bạo lực thường không đơn giản như chúng ta tưởng? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta cần phải phân biệt được hai yếu tố chủ chốt quyết định bất kì hành vi nào của con người đó là yếu tố nội sinh – bên trong và yếu tố ngoại sinh – bên ngoài. Nghiên cứu của Pugh, Li & Sun (2018) đề cập đến một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyết định rời khỏi một mối quan hệ độc hại bao gồm yếu tố bên trong, yếu tố về các mối quan hệ và yếu tố về cộng đồng. Về các yếu tố nội sinh, đây có thể là vấn đề về tài chính, tâm lý tự đổ lỗi cho bản thân, tâm lý bị cách biệt và cảm giác vô vọng không tìm thấy lối thoát, tâm lý cam kết và mong muốn cải thiện mối quan hệ, vấn đề về lòng tự trọng, thiếu thốn về vật chất và tài nguyên để rời khỏi mối quan hệ, vấn đề về sức khoẻ và nơi sinh sống và chật vật với những suy nghĩ đối chọi với nhau về mối quan hệ và người tình. Về các yếu tố bên ngoài và các mối quan hệ, những yếu tố có thể vô hình xiềng xích một người ở lại mối quan hệ bạo lực bao gồm hệ tư tưởng nam quyền, áp lực về vai trò giới truyền thống, không có sự hỗ trợ từ pháp luật, phân biệt giới, trạng thái nhập cư và cảm giác bị dè bỉu bởi xã hội. Những yếu tố này cùng với việc lệ thuộc về tài chính là những gông cùm trói buộc nạn nhân của mối quan hệ độc hại ở lại hoặc khiến họ mất rất nhiều thời gian để rời khỏi một mối quan hệ bạo hành.
Trước khi đi vào cụ thể một vài yếu tố giữ chân người ta ở lại mối quan hệ độc hại, chúng ta cần hiểu về tính chất và nguyên nhân của bạo lực trong mối quan hệ thân mật. Rhodes & McKenzie (1998) trích dẫn lý thuyết của Straus (1978) về bạo lực gia đình cho rằng, bạo lực là sản phẩm của khuông mẫu giới, vai trò giới trong hôn nhân và những áp lực trong gia đình. Để giải nghĩa cho dễ hiểu hơn, bạo lực xảy ra bởi xã hội chúng ta đang sống trong cho phép nó xảy ra thông qua những định kiến và bất công về giới – những tư tưởng như ‘dạy vợ’, gia trưởng, hay những đòi hỏi về vai trò giới trong hôn nhân như mong đợi người phụ nữ phải gánh vác hết công việc nội trợ là ví dụ của những yếu tố Straus cho rằng tạo động cơ cho bạo lực trong hôn nhân.
Trái ngược với định kiến rằng ‘đánh là đáng’ hay ‘gái hư phải để chồng dạy’, nghiên cứu của Jacobson et al. (1994) phỏng vấn những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình tìm thấy, không có cách ứng xử nào của người vợ có thể kiềm hãm hay ngăn chặn bạo lực một khi nó đã diễn ra. Nghiên cứu này cũng tìm thấy thêm rằng bất kể người phụ nữ có cố gắng phản đối lại vũ lực bằng vũ lực hay không, mức độ bạo hành vẫn sẽ tăng lên.
Nghiên cứu của Follingstad et al. (1992) tìm thấy, mật độ bạo hành thường tăng nhanh từ 6 tháng đầu tiên kể từ lúc có dấu hiệu bạo hành cho đến 6 tháng thứ hai rồi thứ ba. Sau 18 tháng kể từ lần đầu bạo hành, mật độ bạo lực sẽ bắt đầu diễn ra một cách đều đặn và thường xuyên. Walker (1987) đề cập đến việc khi nạn nhân đã quen với mật độ bạo lực trong mối quan hệ, họ sẽ bắt đầu đoán trước được thời gian và địa điểm mà bạo hành có thể diễn ra, thậm chí có những hành vi chủ động dẫn đến bạo hành. Walker nhấn mạnh rằng mặc dù nhìn từ bên ngoài vào, đó có thể là những hành vi khơi gợi bạo lực nhưng bản chất của chúng là một phương thức phòng vệ để đem lại cho nạn nhân cảm giác có kiểm soát về địa điểm và thời gian bạo hành có thể diễn ra.
Trong khi bạo lực thể xác là một hình thức bạo hành thường mang lại những hệ quả có thể nhìn thấy bằng mắt thường, một hình thức bạo hành khác thường khó có thể đo lường hệ quả của nó bằng một đơn vị cụ thể chính là bạo hành cảm xúc. Trong nghiên cứu của Follingstand et al. (1990), 72% trong 240 phụ nữ tham gia nghiên cứu báo cáo rằng bạo hành về cảm xúc để lại ảnh hưởng tiêu cực lên họ nhiều hơn bạo lực thể xác. Vitanza et al. (1995) báo cáo rằng chế giễu hay hạ thấp nhân phẩm là một trong những phương thức bạo hành cảm xúc phổ biến nhất ở những nạn nhân của bạo lực trong mối quan hệ thân mật. Bên cạnh đó, một số phương thức phổ biến khác bao gồm việc đe doạ về bạo lực, ghen tuông, và cấm đoán nhiều hoạt động của nạn nhân. Bên cạnh những hình thức bạo lực này, nghiên cứu cũng tìm thấy, nạn nhân cho rằng việc phá hoại đồ dùng trong nhà là một trong những dấu hiệu thúc đẩy họ rời khỏi mối quan hệ.
Đó là tính chất của bạo lực, vậy còn những người trong cuộc của mối quan hệ bạo lực có đặc điểm chung nào hay không? Post et al. (1981) phỏng vấn những bệnh nhân trong khoa tâm thần tìm thấy sự đồng biến giữa bạo hành trong tuổi thơ và bạo hành trong hôn nhân, tức những người đã từng trải nghiệm bạo lực gia đình trong tuổi thơ có thể có nguy cơ trải nghiệm bạo lực trong hôn nhân. Hơn nữa, Pagelow (1981) tìm thấy những kẻ bạo hành báo cáo mật độ bị bạo hành trong tuổi thơ còn nhiều hơn những nạn nhân. Trái ngược với niềm tin rằng nạn nhân của bạo lực gia đình thường có học vấn thấp và không có kĩ năng công việc, Walker (1983) tìm thấy trong 400 nạn nhân tham gia nghiên cứu, 40% có học vấn đại học và 23% có học vấn trên đại học. Rounsanville (1978) tìm thấy những nạn nhân của bạo lực thậm chí còn có học vấn và năng lực cao hơn đối tác của họ. Những người này cũng có xu hướng đảm nhận nhiều vai trò và trách nhiệm trong mối quan hệ của họ hơn đối tác.
Quay lại với lý do người ta không rời khỏi những mối quan hệ độc hại, trong tất cả những yếu tố được liệt kể ở trên, Gelles (1974, 1976) tìm thấy lệ thuộc tài chính là một trong những yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến mật độ bạo hành trong mối quan hệ. Đây cũng là một nguyên tố phân biệt những phụ nữ quay trở lại mối quan hệ độc hại sau khi đã rời đi. Những nguyên tố này bao gồm thứ nhất là thu nhập cá nhân của họ thường thấp hơn thu nhập của cả gia đình khi họ chung sống với đối tác bạo hành. Thứ hai, những phụ nữ quay lại thường không có công việc để có thu nhập. Thứ ba, cách họ nhìn nhận bản thân thường tiêu cực hơn những phụ nữ lựa chọn rời khỏi mối quan hệ bạo hành mãi mãi. Những nạn nhân quay trở lại mối quan hệ bạo lực sau khi đã rời đi cũng báo cáo mức độ trầm trọng hơn của việc bạo hành sau đó.
Walkers (1978, 1979, 1984) đề cập đến khái niệm nỗi vô vọng được học (tiếng anh là learned helplessness) ám chỉ việc liên tục thất bại trong việc tìm kiếm sự hỗ trợ hoặc nỗ lực cải thiện mối quan hệ sẽ dẫn đến suy nghĩ mắc kẹt, không thể vẫy vùng cũng không thể bỏ trốn khỏi tình huống đau khổ mình đang trải qua. Nỗi vô vọng được học này được Walkers cho là một trong những nguyên nhân giam giữ nạn nhân của bạo lực gia đình trong đó. Những người này có góc nhìn rằng, có tìm kiếm sự cứu giúp cũng vô ích bởi trước đây những lời kêu cứu của họ đã không mang lại kết quả, họ cũng không thể nhìn thấy lối thoát cho bản thân. Ba yếu tố hình thành nỗi vô vọng được học này bao gồm thứ nhất là sự không thể kiếm soát của các tình huống bạo hành hoặc lạm dụng, thứ hai là nhận thức và tư duy của nạn nhân dần bị thay đổi sau nhiều cố gắng không thành, dẫn đến hình thành góc nhìn về sự vô vọng và cuối cùng là những ảnh hưởng về hành vi của nạn nhân là hệ quả của tư duy này (cụ thể là việc tiếp tục ở lại trong mối quan hệ này). Ba yếu tố này sẽ liên kết và tương tác với nhau để duy trì trạng thái mắc kẹt của họ trong mối quan hệ bạo hành, hình thành một vòng luẩn quẩn mà họ không thể tìm cách phá vỡ.
Episode hôm nay đến đây cũng đã rất dài rồi, và bởi sự nghiêm trọng và không đơn giản của chủ đề chúng ta cùng tìm hiểu ngày hôm nay, có lẽ chúng ta sẽ tạm dừng tại đây. Ở episode này, Amateur Psychology đã cùng mọi người giải đáp câu hỏi vì sao việc rời khỏi mối quan hệ bạo lực, từ góc nhìn khách quan của một người ngoài cuộc, vốn là một việc vô cùng rõ ràng là nhất thiết và nên được thực hiện nhanh chóng, nhưng lại là một điều phức tạp và đặc biệt khó khăn đối với những người ở bên trong nó. Bởi chúng ta không bao giờ nằm trong vị trí của người khác, cũng không trải qua những xúc cảm, cả tình yêu và nỗi đau bên trong mối quan hệ, sẽ vô cùng khó để chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề giống với người bên trong. Ngược lại, chính bởi họ đã hoàn toàn lồng kính tình yêu và mối quan hệ của mình bên trong thế giới của hai người, những người bên trong mối quan hệ bạo lực cũng không có được tầm nhìn từ bên ngoài để dễ dàng đập bể chiếc lồng kính ấy và bước đi. Khi viết kịch bản của tập ngày hôm nay, mình đã nhớ lại một đoạn cắt phỏng vấn của Rhianna nói về việc bị bạo hành bởi bạn trai cũ Chris Brown. Khi người phỏng vấn nói với cô ấy, nhưng cô là một người phụ nữ mạnh mẽ kia mà. Rhianna đã trả lời rằng, đúng vậy, tôi là một người phụ nữ mạnh mẽ và nó vẫn xảy ra với tôi.
Nếu bạn nhìn thấy hình ảnh của bản thân hay một ai đó bạn quen biết trong chiếc lồng kính này, sự hỗ trợ có thể được tìm thấy ở các cơ quan pháp lý, các địa chỉ trị liệu tâm lý, hội liên hiệp phụ nữ địa phương bạn đang sinh sống. Mình sẽ đính kèm Danh bạ địa chỉ cơ quan, tổ chức hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực, xâm hại ở phần tham khảo của tập ngày hôm nay, các bạn có thể tìm đọc phần tham khảo này qua website của mình ở phần mô tả. Gần hơn, bạn có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ những người thân bạn tin tưởng và cảm thấy an toàn với. Riêng với cộng đồng chúng ta, thế hệ trẻ, thế hệ lớn tuổi hơn, phụ nữ, đàn ông, con gái, con trai, cộng đồng LGBTQ+, là những công dân của nền văn minh hiện đại, chúng ta cần tự bổ sung kiến thức cho chính mình, có những cái nhìn thấu hiểu và dịu dàng và làm hết sức mình để hỗ trợ lan toả kiến thức và sự trợ giúp hữu hình đến những ai cần chúng. Hơn hết, việc nói về những vấn đề đã từng bị che đậy vì nỗi sợ, vì sự xấu hổ là bước đầu tiên để đưa những vấn đề này ra ánh sáng để nhìn nhận và tìm hướng cải thiện chúng với vai trò một cộng đồng, một xã hội. Những định kiến, tư duy cũ cần được đập bỏ và thay thế bởi những góc nhìn cởi mở và nhiều cảm thông thay vì gay gắt chỉ trích. Mình cho rằng lòng tốt đến từ sự hiểu, mà sự hiểu chính là đến từ kiến thức, từ góc nhìn rộng hơn, từ những trải nghiệm sâu sắc. Mong rằng tất cả chúng ta đều có sự hiểu để lan toả lòng tốt của mình đến tất cả những gì, những điều, những ai chúng ta chạm vào. Mình mong là mọi người đã thích episode ngày hôm nay, còn bây giờ thì mình sẽ hẹn gặp lại mọi người ở tập tiếp theo nha. Bái bai.
Outtro:
Cảm ơn các bạn đã dành thời gian lắng nghe Amateur Psychology. Nếu các bạn yêu thích podcast ngày hôm nay thì hãy follow mình trên ứng dụng bạn đang sử dụng và giới thiệu cho cả bạn bè và người thân cùng lắng nghe nhé. Các bạn cũng có thể để lại đánh giá cho mình qua cả Apple Podcast và Spotify, là một cách ủng hộ mình hoàn toàn miễn phí và có thể đưa Amateur Psychology đến nhiều người nghe hơn. Mọi người cũng có thể theo dõi Amateur Psychology qua Facebook, Instagram, Youtube và đọc tài liệu được nhắc đến ở mỗi tập qua blog của Amateur Psychology. Mọi đường link sẽ được tìm thấy qua website ở phần mô tả. Một lần nữa, mình là Thư, host của các bạn. Chào tạm biệt và chúc các bạn luôn tự bổ sung kiến thức cho bản thân. Goodbye and stay woke guys!
Reference:
Danh bạ địa chỉ cơ quan, tổ chức hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực, xâm hại: https://vietnam.un.org/sites/default/files/2021-03/Danh ba 11x18cm 2203.pdf
Bạo lực gia đình: Những con số đau lòng: ********https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/bao-luc-gia-đinh-nhung-con-so-đau-long-47791-4504.html
Devries, K. M., Mak, J. Y., Garcia-Moreno, C., Petzold, M., Child, J. C., Falder, G., … & Watts, C. H. (2013). The global prevalence of intimate partner violence against women. Science, 340(6140), 1527-1528.
Houry, D., Rhodes, K. V., Kemball, R. S., Click, L., Cerulli, C., McNutt, L. A., & Kaslow, N. J. (2008). Differences in female and male victims and perpetrators of partner violence with respect to WEB scores. Journal of interpersonal violence, 23(8), 1041-1055.
Pugh, B., Li, L., & Sun, I. Y. (2021). Perceptions of why women stay in physically abusive relationships: A comparative study of Chinese and US college students. Journal of interpersonal violence, 36(7-8), 3778-3813.
Rhodes, N. R., & McKenzie, E. B. (1998). Why do battered women stay?: Three decades of research. Aggression and Violent Behavior, 3(4), 391-406.
Straus, M. A. (1977). Wife beating: How common and why?. Victimology.
Jacobson, N. S., Gottman, J. M., Waltz, J., Rushe, R., Babcock, J., & Holtzworth-Munroe, A. (2000). Affect, verbal content, and psychophysiology in the arguments of couples with a violent husband.
Follingstad, D. R., Hause, E. S., Rutledge, L. L., & Polek, D. S. (1992). Effects of battered women’s early responses on later abuse patterns. Violence and Victims, 7(2), 109-128.
Follingstad, D. R., Rutledge, L. L., Berg, B. J., Hause, E. S., & Polek, D. S. (1990). The role of emotional abuse in physically abusive relationships. Journal of family violence, 5, 107-120.
Vitanza, S., Vogel, L. C., & Marshall, L. L. (1995). Distress and symptoms of posttraumatic stress disorder in abused women. Violence and victims, 10(1), 23-34.
Post, R. D., Willett, A. B., Franks, R. D., House, R. M., & Back, S. M. (1981). Childhood exposure to violence among victims and perpetrators of spouse battering. Victimology, 6(1), 156-166.
Pagelow, M. D. (1981). Factors affecting women’s decisions to leave violent relationships. Journal of Family Issues, 2(4), 391-414.
Walker, L. E. (1983). Victimology and the psychological perspectives of battered women. Victimology.
Rounsaville, B. J. (1978). Theories in marital violence: Evidence from a study of battered women. Victimology.
Gelles, R. J., & Straus, M. (1987). The violent home. Newbury Park, CA: Sage.
Gelles, R. J. (1976). Abused wives: Why do they stay. Journal of Marriage and the Family, 38(4), 659-668.
Walker, L. (1977). 78.“Battered Women and Learned Helplessness.”. Victimology, 2(3), 4.
Walker, L. E. (1979). The battered woman. New York: Harper and Row.